Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ
“Ngài đã trở nên một trẻ thơ, để Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này, Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương những người bé mọn… Ngài dạy chúng ta yêu những ai yếu đuối.” Trong bài giảng dưới đây, Đức Thánh Cha đã lưu tâm đến những trẻ em bị lạm dụng, xâm phạm, bao gồm những thai nhi bị giết hại, cũng như những ai bị xúc phạm vì nghèo khó. Ngài kêu gọi chúng ta nhớ đến những món quà mà chúng ta cần phải có cho những người nghèo trong Mùa Giáng Sinh.
Anh Chị Em thân mến,
Chúng ta vừa nghe trong Phúc Âm sứ điệp được loan báo từ các thiên thần cho các mục đồng trong Đêm Thánh đó, một sứ điệp mà Giáo Hội giờ đây cũng muốn loan báo cho tất cả chúng ta: “Hôm nay, một Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” (Lk 2:11-12). Không gì kỳ diệu, không gì phi thường, không gì vỹ đại đã được ban cho các mục đồng làm dấu chỉ. Tất cả những gì họ thấy chỉ là một em bé được quấn trong những tấm vải thô, một trẻ thơ như bao trẻ thơ khác cần sự săn sóc của người mẹ. Một đứa trẻ được sinh ra trong máng cỏ, và vì thế, được đặt nằm trong máng cỏ thay vì một chiếc nôi. Dấu hiệu của Thiên Chúa là một trẻ thơ cần được giúp đỡ, và trong cảnh nghèo khó. Chỉ trong tâm hồn mà các mục đồng mới có thể nhìn ra rằng, trẻ sơ sinh này hoàn tất lời hứa của tiên tri Isaiah mà chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ I: “Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta. Người gánh vác quyền bính trên vai” (Is 9:5). Một dấu chính xác cũng đã được ban cho chúng ta. Cả chúng ta cũng được các thiên thần của Thiên Chúa mời gọi, qua thông điệp của Phúc Âm, mở rộng tâm hồn mình để nhìn vào hài nhi đang nằm trong máng cỏ.
Dấu hiệu của Thiên Chúa thì đơn sơ. Dấu hiệu của Thiên Chúa là một em nhỏ sơ sinh. Dấu hiệu của Thiên Chúa là Ngài đã biến chính mình thành nhỏ bé cho chúng ta. Đó là cách thức mà Ngài cai trị. Ngài không đến với quyền lực và chói ngời vinh quang. Ngài đến như một em bé – yếu đuối và cần sự giúp đỡ của chúng ta. Ngài không muốn chiếm đoán chúng ta bằng sức mạnh của Ngài. Ngài không làm chúng ta hoảng sợ vì sự cao cả của Ngài. Ngài xin chúng ta tình yêu: nhờ đó Ngài biến chính mình thành một trẻ thơ. Ngài không muốn gì ngoài tình yêu của chúng ta, qua đó chúng ta một cách tự nguyện học để tiến vào những tình cảm của Ngài, những tư tưởng của Ngài và ý muốn của Ngài – chúng ta học để sống với Ngài và thực hành với Ngài sự từ bỏ và khiêm nhường mà nó thuộc về bản chất của tình yêu. Thiên Chúa biến chính mình thành nhỏ bé để chúng ta có thể hiểu được Ngài, đón nhận Ngài, và yêu mến Ngài. Các Giáo Phụ của Giáo Hội, qua bản dịch tiếng Hy Lạp trong Cựu Ước, đã tìm thấy một đoạn trong tiên tri Isaiah mà Thánh Phaolô đã trích dẫn để chỉ ra những con đường mới của Thiên Chúa đã được nói đến trong Cựu Ước như thế nào. Ở đó chúng ta đọc thấy: Thiên Chúa đã làm cho Lời ngài trở nên rõ ràng, Ngài đã viết tắt nó” (Is 10:23; Rom 9:28). Các Giáo Phụ đã dịch nghĩa của câu này bằng hai cách. Chúa Con chính mình là Lời, Logos; Lời từ muôn thuở (eternal Word) đã trở nên bé nhỏ – bé nhỏ vừa đủ trong một máng cỏ. Ngài đã trở nên một con trẻ, để nhờ đó Ngôi Lời có thể được chúng ta nắm bắt. Bằng cách này Thiên Chúa dạy chúng ta phải yêu thương những ai bé mọn. Bằng cách này, Ngài dạy chúng ta yêu thương những người yếu đuối. Bằng cách này, Ngài dạy chúng ta tôn trọng những trẻ em. Con trẻ của Bethlehem hướng dẫn tầm nhìn của chúng ta đến với tất cả các em nhỏ, những trẻ em đau khổ và bị lạm dụng trong thế giới, được sinh ra cũng như bị phá bỏ. Đến với những trẻ em đang bị bắt làm những chiến binh trong một thế giới bạo loạn, những trẻ em đang phải ăn xin, những trẻ em phải đau khổ cực nhọc, và đói khát. Và đến với những trẻ em không được yêu thương. Trong tất cả những em này là Con Trẻ của Bethlehem, Đấng đang kêu đến chúng ta. Là Thiên Chúa, Đấng đã trở nên bé nhỏ đang van xin chúng ta. Chúng ta hãy cầu xin để đêm nay, sự chiếu sáng của tình yêu Thiên Chúa có thể bao trùm tất cả những em này. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa giúp chúng ta hoàn tất phần của mình, để nhờ đó, phẩm giá của các em được tôn trọng. Chớ gì tất cả được cảm nghiệm ánh sáng của tình yêu, điều mà nhân loại đang cần hơn những nhu cầu vật chất của đời sống.
Và từ đó, chúng ta tiến đến ý nghĩa thứ hai mà các Giáo Phụ đã nhận ra trong câu: “Thiên Chúa đã làm Lời ngài rõ ràng”. Ngôi Lời mà Thiên Chúa nói với chúng ta trong Sách Thánh đã trở thành xa xôi trong dòng chảy của các thế kỷ. Nó trở nên xa lạ và phức tạp, không chỉ đối với những người đơn sơ và dốt nát. Nhưng hơn thế nữa, những câu được trích dẫn trong Sách Thánh, ngay cả đối với những nhà chuyên môn, những người này một cách rõ ràng, cũng bị vướng mắc vào những chi tiết và trong những vấn nạn dẫn tới việc hầu như làm mất đi toàn bộ viễn cảnh. Chúa Giêsu, Ngôi Lời “được viết tắt” - Ngài đã chỉ cho chúng ta một lần nữa sự đơn sơ và thuần khiết sâu thẳm hơn. Tất cả những gì được dạy trong Luật và các Tiên Tri đã được thu tóm lại – Ngài nói – trong một lệnh truyền: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, và hết trí khôn ngươi… Ngươi hãy yêu thương cận thân ngươi như chính mình ngươi” (Mt 22:37-40). Điều này là tất cả - toàn bộ đức tin bao gồm trong một hành động yêu thương này, hành động ôm choàng Thiên Chúa và nhân loại.
Đúng vậy, giờ đây những câu hỏi xa hơn được nêu lên: Làm cách nào mà chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa với hết trái tim và linh hồn, khi mà trái tim chúng ta chỉ có thể bắt gặp một cái nhìn thoáng qua của Ngài từ xa. Khi mà có quá nhiều những chống đối trên thế giới khiến có thể che dấu khuôn mặt của Ngài khỏi chúng ta? Đó là ở đó hai con đường trong đó Thiên Chúa đã “viết tắt” Ngôi Lời của Ngài hội tụ nhau. Ngài không còn ở xa nữa. Ngài không còn không được biết tới nưa. Ngài không còn ở ngoài tầm với của con tim chúng ta. Ngài đã trở nên một em bé cho chúng ta, và làm như thế, Ngài đã loại bỏ mọi nghi vấn. Ngài đã trở nên hàng xóm của chúng ta, tái thiết lập bằng cách này hình ảnh của con người, hình ảnh mà thường xuyên chúng ta cảm thấy khó lòng để yêu mến. Đối với chúng ta, Thiên Chúa đã trở nên một tặng vật. Ngài đã trao tặng chính Ngài. Ngài đã đi vào thời gian vì chúng ta. Ngài, Đấng là Đời Đời, ở trên thời gian, Ngài đã giả định thời gian của chúng ta và nâng nó lên với chính Ngài ở nơi cao sang. Lễ Giáng Sinh đã trở thành một Lễ của những tặng vật trong hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng đã ban chính mình cho chúng ta. Chúng ta hãy để trái tim mình, linh hồn mình, và trí khôn mình được đụng chạm bằng thực tế này! Giữa muôn vàn tặng vật mà chúng ta mua và nhận được, chúng ta đừng quên tặng vật thật: cho nhau một cái gì của chính chúng ta, cho nhau thời gian của chúng ta, để mở thời gian của chúng ta đối với Thiên Chúa. Bằng cách này, nỗi sợ hãi biến mất, vui mừng được sinh ra, và thánh lễ được thiết lập. Trong những bữa ăn tiệc tùng của những ngày này, chúng ta hãy nhớ lại những lời của Chúa: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi, nhưng hãy mời những người mà họ không đáp lễ các ông được” (cf. Lk 14:12-14). Điều này cũng có nghĩa là: khi chúng ta trao tặng quà vào dịp Giáng Sinh, không chỉ cho những ai mà họ sẽ cho lại mình, nhưng cho những ai mà họ không có gì cho lại mình. Đây là những gì mà Thiên Chúa đã làm: Ngài mời gọi chúng ta đến với tiệc cưới của Ngài, một cái gì đó mà chúng ta không thể đáp trả lại, nhưng chỉ lãnh nhận với niềm vui. Chúng ta hãy bắt chước Ngài! Chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa và bắt đầu từ Ngài, chúng ta hãy yêu thương con người, để cũng bắt đầu từ con người, chúng ta có thể tái khám phá Thiên Chúa bằng một cách thức mới mẻ!
Cuối cùng, chúng ta tìm ra ý nghĩa thứ ba trong câu nói rằng Ngôi Lời trở thành “rõ ràng” và “nhỏ bé”. Các mục đồng được cho biết rằng họ sẽ tìm thấy một hài nhi trong máng ăn của súc vật, Đấng có quyền chiếm hữu cả một cái chuồng. Đọc Isaiah (1:3), các Giáo Phụ kết luận rằng bên ngoài máng cỏ Bethlehem, còn đứng đó một con bò và một con lừa. Cùng lúc, các ngài đã giải thích đoạn văn này như dấu hiệu của Dân Do Thái và dân ngoại – và vì tất cả là con người – những con người trong một cách thức riêng mình có nhu cầu về một Đấng Cứu Độ: Thiên Chúa đã biến thành một trẻ thơ. Con người, để sống cần có bánh, hoa quả trên trái đất và nhờ lao công của mình. Nhưng nó không sống nguyên bởi bánh. Nó cần được nuôi dưỡng cho linh hồn của mình: nó cần một ý nghĩa có thể no thỏa đời sống của mình. Vì thế, đối với các Giáo Phụ, máng cỏ của loài vật trở thành dấu hiệu của bàn thờ, trên đó có Bánh cũng là chính Chúa Kitô: thức ăn thật của tâm hồn chúng ta. Một lần nữa, chúng ta nhìn thấy Ngài đã trở nên nhỏ bé như thế nào: trong sự xuất hiện khiêm nhường của bánh thánh, trong tấm bánh nhỏ bé, Ngài trao chính mình Ngài cho chúng ta.
Tất cả những điều này được hàm chứa bằng một dấu chỉ đã được ban cho các mục đồng và cũng được ban cho chúng ta: một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, hài nhi trong Ngài, Thiên Chúa đã trở nên nhỏ bé cho chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta ơn nhìn vào chiếc nôi đêm nay với sự đơn sơ của các mục đồng, nhờ đó để đón nhận niềm vui mà với niềm vui này họ đã trở về nhà (cf. Lk 2:20). Chúng ta hãy xin Ngài cho chúng ta đức khiêm nhường và đức tin với những nhân đức này Thánh Giuse đã nhìn ngắm hài nhi mà Đức Maria đã thụ thai bởi Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Chúa cho phép chúng ta nhìn ngắm Ngài với cùng một lòng mến như Đức Maria đã nhìn Ngài. Và chúng ta hãy cầu xin rằng trong cùng cách này ánh sáng mà các mục đồng đã nhìn thấy sẽ chiếu sáng trên chúng ta nữa, và rằng những gì các thiên thần đã hát trong đêm đó sẽ được thành tựu trên toàn thế giới: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao thẳm, và bình an dưới thế cho người Chúa thương.” Amen!
_________
Thấm thoát mà đã 2023 lần kỷ niệm ngày Giêsu giáng trần. Mỗi năm mỗi khác, và mỗi nơi cũng mỗi khác. Có những năm trời mưa, giông bão, tuyết rơi. Có những năm thanh bình, và cũng có những năm chiến tranh. Riêng tại quê hương Việt Nam tuy hết chiến tranh nhưng lại chưa có thanh bình!
Advent xuất phát từ tiếng Latin là adventus có nghĩa là đang đến, đang tới gần. Theo lịch phụng vụ, đây là thời gian mong chờ và chuẩn bị đón mừng Sinh Nhật của Đức Giêsu Kitô trong đêm Giáng Sinh, và ở một nghĩa khác, nhắc nhở chúng ta hướng tới ngày trở lại lần thứ hai của Ngài. Mùa Vọng kéo dài qua 4 tuần lễ với 4 Chúa Nhật Mùa Vọng.
Hôm 8 tháng 9 năm 2023 lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách Vinh Quang Mẹ Maria (The GLORIES of MARY) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Và tôi đã cùng ngài suy niệm câu: “Đến sau cõi đời này, xin Mẹ cho chúng con được thấy Chúa Giêsu quả phúc của lòng Mẹ”
Theo truyền thống đã có từ những thế kỷ đầu, Giáo Hội Công Giáo tôn kính 7 Tổng Thần có tên là Michael, Gabriel, Raphael, Uriel, Camael, Jophiel, and Zadkiel. Ba vị đầu là Michael, Gabriel và Raphael
Sau khi đọc bài “KHI THA THỨ LÀ TỰ THA CHÍNH MÌNH”, một độc giả đã email phản ảnh ý kiến của mình. Ông viết: “Bài học này tôi đã học mãi mà chưa thuộc. Tha đã khó mà quên những điều người khác làm cho mình phải khổ, phải thiệt thòi, hoặc phải mất danh dự thì càng khó hơn”.
“Tha thứ là tự tha cho chính mình”. Tư tưởng này xem ra như không hợp với suy nghĩ và lối sống của nhiều người. Làm gì có chuyện tha cho kẻ cướp chồng mình, kẻ phản bội mình vì một người đàn bà khác, kẻ cướp của, giết hại cha mẹ, anh chị em mình, hoặc kẻ tham ô khiến mình phải mất đất, mất nhà, mất việc làm để rồi đến nỗi táng gia bại sản, thân bại danh liệt, gia đình đổ vỡ, con cái nheo nhóc, lâm cảnh tù tội…
Hôn nhân là một đời sống hạnh phúc. Nó chính là nền tảng của gia đình, của xã hội, và cả tôn giáo nữa. Bởi đó hôn nhân có rất nhiều kẻ thù. Thoạt nhìn vào những đổ vỡ của hôn nhân, người ta thường cho rằng kẻ thù của nó là những tệ nạn của xã hội: rượu chè, nghiện hút, cờ bạc, và lăng nhăng trai gái. Một số nguyên nhân khác bao gồm: vợ chồng ghen tương, lười biếng, thiếu trách nhiệm, nếp sống gia trưởng, và bạo hành trong gia đình.
Hôm nay (8 tháng 9 năm 2023) lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, trong lúc nguyện ngắm buổi sáng trước Thánh Lễ, tôi đã dùng cuốn sách The GLORIES of MARY (Vinh Quang Mẹ Maria) của Thánh Alphonsus De Liguori làm tư tưởng cho phần suy niệm. Trong phần tài liệu, tôi đã đọc bài viết của thánh nhân, và cùng ngài suy niệm câu: “Et Jesum benedictum fructum ventris tui nobis post hoc exilium obstande”
Chư huynh đáng kính trong hàng Giám Mục và Linh Mục
Anh chị em thân mến, Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), một thi ca tuyệt vời của Đức Mẹ mà chúng ta vừa nghe trong Tin Mừng, chúng ta tìm thấy một số từ ngữ gây kinh ngạc. Maria nói: “Từ nay muôn thế hệ sẽ gọi tôi diễm phúc”.
Những hình ảnh cổ nhất diễn tả việc Chúa Giêsu biến hình có từ thế kỷ thứ Sáu được tìm thấy trong tu viện St. Catharine ở Siani, đã diễn tả những gì mà thánh ký Matthêu đã ghi lại trên núi. Theo truyền thống thì Chúa Giêsu đã biến hình trên núi Tabor. Đây là ngọn núi cao 575m ở cuối hướng đông của Thung Lũng Jezreel, cách Biển Galilee 18 Km.
Qua Tiên Tri Isaia, Thiên Chúa được diễn tả như một Thiên Chúa đáng yêu, giầu lòng rộng rãi, nhân ái và bao dung. Ngài luôn mời gọi mỗi người chúng ta đến với Ngài. Lời “mời” của Ngài trường hợp này mang hai nghĩa: -Sự thu hút của lời mời. Trong Isaia chúng ta tìm thấy ý nghĩa của sự thu hút ấy qua những lời: Khát nước, đói, đồ bổ, món ăn mỹ vị, bánh, sữa và rượu…
Nếu có dịp đọc tác phẩm “The Surrendered Wife” (Người Vợ Về Nguồn) của Laura Doyle [1], thì cũng giống như phần lớn các độc giả, bạn sẽ bị thu hút vào một cuộc tranh chấp nội tâm: tán thành hoặc phản đối nội dung và triết lý được tác giả trình bày trong đó.
Trong khi cao trào về nam nữ bình quyền, về nữ quyền đang được đề cao mà có ai đó nói rằng đã đến lúc chị em phụ nữ cần dừng lại để xem xét lại những gì mình đã làm,
Trong thế giới tự do hiện nay, con người xem như muốn giành lấy quyền làm chủ đời mình. Họ muốn biết lành, biết dữ. Với trào lưu tư tưởng không ngừng phản ảnh đến suy nghĩ và hành động. Thêm vào đó, được tiếp tay bởi truyền thông, sự lạm dụng và khuynh loát của giới chính trị, các chủ thuyết tự do của xã hội, và sự suy sụp về luân lý, đạo đức, những phong trào đồng tính, hôn nhân đồng tính và chuyển giới ngày một trở nên thách đố hệ thống luân lý, luật pháp, trật tự xã hội, đạo đức xã hội và cả Thiên Chúa nữa.
Phải bắt đầu dạy đứa trẻ 20 năm trước khi nó chào đời”. Câu nói này được cho là của Napoleon, nhưng quan niệm về tâm lý giáo dục thì cho rằng đứa trẻ không chỉ “sẵn sàng để học”, mà nó đã thực sự học ngay vừa khi chào đời.
Thời gian gần đây thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được những cuộc gọi nhờ giúp đỡ hoặc hỏi ý kiến qua điện thoại. Phần lớn những thắc mắc đều quy về hai điểm chính: Hôn nhân và giáo dục con cái.
Tâm lý nhàm chán cho chúng ta lý do để “xét lại”. Theo tâm lý này, người ta có trăm ngàn lý do để đến với nhau, và cũng có trăm ngàn lý do để xa nhau. Một khi tình yêu đã ra nhạt nhẽo, hững hờ, người ta sẽ cảm thấy hối tiếc, thấy phàn nàn, và muốn “thay đổi”. Và hậu quả là đem đến những cám dỗ về ngoại tình, nhất là những lúc “cơm không lành, canh không ngọt”. Như Nguyễn Ánh 9, Hồ Dzếnh cũng có một cái nhìn bi quan về một tình yêu chung thủy, hay đúng hơn một sự mơ mộng về cái thuở còn yêu nhau, theo đuổi và tán tỉnh nhau:
“Nhất quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Câu nói này hầu như ai cũng đã nghe và đã biết về ý nghĩa của nó. Tuổi trẻ mà không chút phá phách, nghịch ngợm không phải là tuổi trẻ. Nhưng lưu manh, côn đồ, du đãng, và bắt nạt lẫn nhau thì đó là những hành động không thể chấp nhận. Hậu quả của nó còn để lại một hiện tượng xã hội tồi tệ sau này, đó là: “Cá lớn nuốt cá bé!”
Một trong những cái làm căng thẳng nhất đối với một đứa trẻ là sức ép từ bạn bè “peer pressure”. Ai cũng có kinh nghiệm này khi còn là một trẻ em cắp sách đến trường, đặc biệt ở tuổi vị thành niên, và cả sau này khi đã bước chân vào cuộc sống với những giao tiếp xã hội.
Thánh Giuse, Cha Nuôi Đức Kitô. Ngài đã sinh sống và nuôi vợ con với đôi tay và sức lao động của chính mình bằng nghề thợ mộc. Chúa Giêsu lớn lên cũng theo nghề của dưỡng phụ ngài, và đã trở thành một anh thợ mộc: “Đây không phải là ông thợ mộc sao? Không phải là con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em của ông không ở đây với chúng ta sao? Và họ xúc phạm đến Ngài” (Marcô 6:3).
Dù chỉ là một người thợ mộc bình dân, âm thầm, và nghèo nàn, nhưng theo huyết thống, Thánh Giuse thuộc hoàng tộc David. Ở vào thời ngài, dòng dõi David tuy không còn lừng lẫy như xưa, Thánh Giuse vẫn cho thấy ngài là người có tâm hồn cao thượng và thánh thiện. Thánh Kinh kể lại sau khi kết hôn với Maria, do nhận ra Maria có thai, nhưng vì “là người công chính và không muốn công khai tố cáo người bạn mình” (Matthêu 1:19), nên Thánh Giuse đã định tâm lìa bỏ Maria một cách kín đáo. Hành động của ngài đã khiến Thiên Đàng phải can thiệp. Thiên thần Chúa đã được sai đến và cho ngài hay con trẻ đó là Con Thiên Chúa, và Con Thiên Chúa đây được hoài thai bởi quyền năng Chúa Thánh Thần.
“Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống.” Họ nói: “Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: “Tôi từ trời xuống?” Đức Giê-su bảo họ: “Các ông đừng có xầm xì với nhau! Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. Tôi là bánh trường sinh. Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.”
“Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời” (Khải Huyền 1:17-18). *
Chúng ta vừa nghe những lời an ủi này trong Bài Đọc Thứ Hai trích từ sách Khải Huyền. Những lời mời gọi chúng ta hướng tầm nhìn vào Chúa Kitô, để cảm nghiệm sự hiện diện bảo đảm của Ngài. Đối với mỗi người, trong bất cứ điều kiện nào, dù cho là phức tạp và bi đát nhất, Đấng Phục Sinh đều lập lại: “Đừng sợ, Ta đã chết trên Thập Giá nhưng nay Ta sống đến muôn đời”, “Ta là đấng trước hết và sau hết, và là đấng hằng sống.”
Theo trình thuật của thánh sử Luca (Lc 24,13-35), hôm đó trên đường từ Giêrusalem về Emmaus có ba người lữ hành. Họ đi bên nhau, chia sẻ những suy tư của mình về một biến cố, theo họ, rất quan trọng và có ảnh hưởng đến không chỉ riêng họ mà còn cả toàn dân Israel nữa. Ba người gồm một người được ghi rõ tên, một người không ghi rõ tên, và một người sau cuối ngày danh tính mới được biết đến. Đây cũng là người, là nhân vật chính trong câu chuyện mà cả ba đã trao đổi suốt dọc đường.
Anh chị em thân mến,
Đây là thời khắc mà tôi đã từng mong đợi. Tôi đã đứng trước Khăn Liệm Thánh trong nhiều trường hợp khác nhau, nhưng lúc này, qua cuộc Hành Hương này và giây phút này tôi đang cảm nghiệm về nó bằng một cường độ đặc biệt: Có lẽ vì trong những năm vừa qua đã cho tôi cảm nhận nhiều hơn đối với thông điệp của Hình Ảnh phi thường này. Và trên tất cả, tôi có thể nói bởi vì giờ này, tôi ở đây như Đấng Kế Vị của Phêrô, và tôi mang trong tim tôi toàn thể Giáo Hội, đúng ra, toàn thể nhân loại.
Các nhà chú giải Thánh Kinh đã đếm được 365 lần câu “đừng sợ” (don’t be afraid) trong Kinh Thánh. Nếu một năm 365 ngày chia đều cho 365 lần nhắc nhở “đừng sợ”, thì ít nhất mỗi ngày một lần, Thánh Kinh nhắc bảo con người rằng “đừng sợ!” Vậy, con người sợ cái gì? Và tại sao Thiên Chúa lại phải trấn an con người như vậy? [1]
Thế gian này là một “vũng lệ sầu” như lời trong kinh Lạy Nữ Vương, vì thế cuộc lữ hành đi về vĩnh hằng của con người chính là một hành trình gặp phải rất nhiều sự sợ hãi. Trước hết, con người phải đối diện với những sợ hãi do ma quỷ là loài thần thiêng, nhưng luôn luôn ghen tỵ và tìm mọi cách để làm hại con người.
Tuần Thánh (Holy Week), tiếng Latin là Hebdomas Sancta hay Hebdomas Maior. Tuần lễ trọng đại này đối với người Kitô Giáo là tuần trước Phục Sinh. Theo Tây Phương, nó bắt đầu bằng tuần lễ sau cùng của Mùa Chay, bao gồm Chúa Nhật Lễ Lá, Thứ Tư, Thứ Năm, Thứ Sáu và Thứ Bẩy tuần Thánh.
Thế là Giêsu người thành Nagiarét đã “mồ yên mả đẹp”.
Vâng! Hỡi Giêsu. Xin hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả sau ba năm truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những roi đòn làm tan nát tấm thân. Quên đi mão gai. Quên đi những tiếng la ó đòi kết án. Quên đi bản án bất công. Quên đi thánh giá nặng trên vai. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con.” (Mt 27:46) Quên đi đồi Golgotha loang máu. Và Giêsu ơi! Xin hãy ngủ yên.
Có khi nào chúng ta đã tự đặt mình vào số những người vây quanh Chúa Giêsu mỗi khi Ngài rao giảng không? Và thái độ của chúng ta lúc đó như thế nào: Hăm hở nghe lời Ngài, suy tôn và thần tượng Ngài về những lời giảng dạy khôn ngoan; hoặc ngược lại, cảm thấy chói tai, mỉa mai Ngài rồi bỏ đi?